Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

[Sức khỏe đời sống] CỦ MÀI

Bài 1. Thuốc bổ từ củ mài (SKDS) – Cây củ mài thuộc họ dây leo quấn, thân nhẵn, hơi có góc cạnh, màu đỏ hồng, thường mang những củ nhỏ ở nách lá (dái mài). Rễ củ đơn độc hoặc từng đôi, ăn sâu vào đất đến hàng mét, hơi phình ở phía gốc, vỏ ngoài có màu nâu xám, thịt mềm màu trắng. Lá mọc so le hay mọc đối, hình tim, cụm hoa đơn tính gồm các bông khúc khuỷu, màu vàng. Cây thường mọc hoang ở các vùng rừng núi phía Bắc và miền Trung. Nhân dân vùng núi thường đào củ mài về cạo sạch vỏ, luộc, xào hoặc nấu canh ăn. Củ mài được trồng nhiều ở đồng bằng để làm dược liệu. Đào củ vào mùa hè – thu khi cây đã lụi, mang về rửa sạch, gọt vỏ cho vào lò xông lưu huỳnh 2 ngày đêm, sau đó phơi sấy cho đến khô. Trong Đông y, vị thuốc từ củ mài có tên là hoài sơn, vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ tỳ vị, ích tâm phế, bổ thận, chỉ tả lỵ. Thường dùng làm thuốc bổ ngũ tạng, mạnh gân xương, chữa suy nhược cơ thể, bệnh đường ruột, tiêu chảy, lỵ, tiêu khát; thận suy, mỏi lưng, chóng mặt, hoa mắt, ra mồ hôi trộm,… Dùng dưới dạng thuốc sắc uống hoặc tán bột uống. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác. Một số bài thuốc bổ thường dùng Cháo bổ tỳ: Củ mài 50g, khoai sọ 200g, gạo tẻ 50g, nấu cháo ăn trong ngày. Thường xuyên ăn món cháo này có tác dụng ích khí (tăng thể lực), bổ tỳ vị (tăng cường chức năng tiêu hóa), dùng chữa chứng đuối sức, mệt mỏi, kém ăn, miệng khát, hay phiền táo.

Chữa suy nhược cơ thể sau viêm đại tràng, loét dạ dày – tá tràng, rối loạn tiêu hóa kéo dài: Củ mài 12g, bố chính sâm 16g, bạch truật 12g, biển đậu 12g, ý dĩ 12g, vỏ quýt 6g, hạt sen 12g, hạt cau 10g, nam mộc hương 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 2 lần. Dùng 7-10 ngày.
Cây củ mài và vị thuốc hoài sơn. Chữa chán ăn, khó tiêu do tỳ vị hư nhược: Củ mài 100g, khiếm thực 100g, xuyên tiêu 30g, gạo nếp 1.000g, đường trắng 30g. Gạo nếp ngâm một đêm, vo sạch, để khô, rang chín, tán bột. Củ mài, khiếm thực, xuyên tiêu đều sao qua, tán bột. Trộn đều hai thứ bột với nhau để sẵn. Mỗi lần ăn, lấy 30 – 60g pha với nước sôi và một ít đường trắng. Chữa suy dinh dưỡng ở trẻ: Củ mài 20g, gạo 50g, biển đậu 10g, lòng đỏ trứng gà 1 cái, đường trắng 20g. Củ mài sấy khô. Gạo, biển đậu đều xay thành bột. Trứng gà luộc bóc lấy lòng đỏ, cho vào bột gạo dầm nát trộn đều. Tất cả cho vào nồi thêm 200ml nước đun trên lửa nhỏ. Khi cháo chín cho đường quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần, ăn liền 15 ngày. Chữa cơ thể suy nhược sau khi ốm: Củ mài 15g, vừng đen 120g, đường đỏ 20g, sữa bò 200g, đường phèn 100g, gạo tẻ 30g. Củ mài thái nhỏ. Vừng và gạo rang chín vàng nghiền nhỏ rồi cho nước vào quấy đều, lọc lấy nước trộn với sữa bò, đường phèn, đun sôi cùng củ mài quấy chín. Ăn trong ngày. Tác dụng: tẩm bổ can thận, bổ tỳ nhuận trường, chữa cơ thể suy nhược sau khi ốm, gan thận yếu, tóc bạc sớm, bí đại tiện. Bác sĩ Nguyễn Thị Nga Bài 2. Chè củ mài Cây củ mài thuộc họ dây leo, anh em với cây củ từ, lá gần giống như lá cây củ từ. Hình quả cây củ mài rất độc đáo. Củ mài không to lắm. Thông thường mỗi dây chỉ có một củ. Củ mài thường chỉ to bằng bụng tay người lớn dài khoảng hai, ba gang tay. Tuy nhiên cũng có củ cắm sâu hàng mét. Đào sâu, đoạn dưới đất sâu bao giờ cũng nạc, bở, ngon hơn đoạn trên gần cuống dây. Chỉ cần đào được một củ to bằng bụng tay, dài khoảng một mét, ta đã được một nồi chè cho đủ cả nhà có mươi người ăn thoải mái rồi. Củ mài rất dễ chế biến thành những món ăn thông thường. Chè củ mài có thể nói, đó là một món đặc sản của vùng núi vậy. Chế biến củ mài để nấu chè cũng rất đơn giản, có nhiều cách khác nhau. Thông thường thì củ mài được rửa sạch, cạo vỏ, sau đó đem xát. Sau đó lấy rá lọc bỏ những tạp chất, để nước bột lắng xuống, chắt nước trong có lẫn nhớt ở trên bỏ đi. Cuối cùng đổ bột vào nồi nấu, cho nước đường vừa phải tùy theo số lượng bột củ mài. Chè củ mài ăn nguội mới ngon. Nhưng khi nồi chè củ mài bắt đầu sôi trên bếp lửa, mùi thơm lạ của rừng, của núi lan tỏa làm cho ai cũng thấy thèm. Nâng bát chè củ mài thưởng thức cảm thấy vị ngọt mát tan ra nơi đầu lưỡi, bâng khuâng nỗi nhớ núi rừng.
Theo Báo Nhân Dân Bài 3. Khoai mài – vị thuốc bổ quý Đông y gọi vị thuốc này là hoài sơn, có tác dụng bổ tỳ rất tốt. Hoài sơn được sử dụng trong các bài thuốc chữa chán ăn, rối loạn tiêu hóa, đi tiêu lỏng do tỳ yếu. Khoai mài là loại cây leo, thân rễ phình thành củ dài 0,5-1 m, đường kính 2-10 cm, có nhiều rễ con. Lá đơn mọc đối hoặc có khi mọc so le, đầu lá nhọn, phía cuống hình tim, kẽ lá có những củ con. Phiến lá dài 8-10 cm, rộng 6-8 cm. Hoa đực, hoa cái khác gốc. Quả khô có ba cạnh và có rìa. Cây mọc hoang khắp miền rừng núi, hiện được trồng ở nhiều nơi. Từ rất xa xưa, các nhà y học cổ đã quy chức năng tiêu hóa của cơ thể cho một cơ quan gọi là tạng Tỳ. Tài liệu xưa nhất về lâm sàng là 2 cuốn Thương hàn và Kim quỹ (khoảng thế kỷ 2-3) xác định bệnh của tạng Tỳ chủ yếu là đi tiêu lỏng, sợ lạnh… Cách chữa là dùng các vị thuốc nóng nhất như can khương (gừng khô), nhục quế (quế loại tốt), phụ tử… Dần dần qua thực tế, thầy thuốc đời sau ghi nhận các mức độ bệnh khác nhau của Tỳ, đưa ra nhiều bài thuốc có các vị thuốc bổ dưỡng hoặc kích thích tiêu hóa như đảng sâm, bạch truật, trần bì, sa nhân. Từ thực tế Tỳ bị bệnh sẽ sinh ra các triệu chứng như đi tiêu lỏng, sợ lạnh, để chữa bệnh phải dùng các vị thuốc nóng, hầu tiếp thêm “lửa” cho Tỳ; một quan niệm đã hình thành: Tỳ là dương và thuốc vào Tỳ cần phải ấm nóng. Lối phân tích trên phù hợp với đa số bệnh Tỳ. Nhưng còn một số trường hợp có các triệu chứng trái ngược, điều trị bằng các bài thuốc cũ tỏ ra không hiệu quả. Đó là các trường hợp Tỳ có bệnh, cũng chán ăn chậm tiêu, nhưng trong người không thấy lạnh, trái lại còn thấy nóng, khát nước; phân chỉ hơi lỏng, thậm chí có khi còn táo bón. Điều đó chứng tỏ Tỳ có cả âm và dương. Khi Tỳ âm bị suy tổn sẽ sinh ra khô khát, nóng trong, đại tiện bí, nặng hơn có thể thổ huyết, gây chán ăn, chậm tiêu, gầy mòn… Để chữa bệnh, ngoài các vị thuốc bổ Tỳ, cần dùng thêm các vị thuốc mát nhằm đồng thời nâng đỡ âm và dương. Có một vị thuốc độc đáo đảm nhiệm được cả hai nhiệm vụ nêu trên: đó là Hoài sơn. Trong dân gian, nhiều người vẫn cho Hoài sơn là vị thuốc vô thưởng vô phạt, ăn cả một gánh cũng không chết. Các thầy thuốc thì chỉ khoe giỏi dùng phụ tử, thục địa, chứ không ai dám thú nhận vẫn dùng Hoài sơn hằng ngày. Thế nhưng ai cũng phải công nhận Hoài sơn là một trong những vị thuốc cổ nhất, được ghi trong sách từ cách đây 2.000 năm, và ngày nay vẫn được dùng phổ biến. Đông y cho rằng Hoài sơn vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ Tỳ bổ âm, trị tiêu khát, cầm tiêu chảy, mạnh Tỳ, Phế, Thận. Hoài sơn bổ Tỳ mà không làm khô ráo, bổ âm mà không làm đầy trệ. Người xưa dùng Hoài sơn trong bài Lục vị để bổ âm, trị chứng nóng trong, người gầy, đổ mồ hôi trộm: Thục địa 32 g, phục linh 12 g, sơn thù 16 g, trạch tả 12 g, hoài sơn 16 g, đan bì 12 g. Hoài sơn cũng được dùng trong bài Sâm linh bạch truật tán để bổ Tỳ, trị chứng tiêu chảy kéo dài, cơ bắp teo nhão, chán ăn, mệt mỏi không có sức: Đảng sâm, hoài sơn, bạch truật, bạch linh, cam thảo mỗi thứ 80 g; biển đậu, hạt sen, ý dĩ, cát cánh, sa nhân mỗi thứ 40 g; trần bì 30 g, tán bột, ngày uống 12 g. Ngày nay, Hoài sơn được dùng để trị các chứng suy dinh dưỡng trẻ em, tiểu đường, ho đàm nhiều do viêm phế quản mãn, tiêu chảy kéo dài, suy nhược cơ thể ở phụ nữ có thai, người mới ốm dậy… Có thể dùng phối hợp trong bài thuốc hoặc dùng đơn độc. Một số đơn thuốc đơn giản: - Trị suy dinh dưỡng trẻ em: Hoài sơn 15 g, ý dĩ 10 g tán bột; gan gà 1 cái thái nhỏ. Hấp chín, ngày ăn 2 lần. - Trị tiểu đương type 2 thể nhẹ và trung bình: Hoài sơn 20 g, hoàng kỳ 16 g, sinh địa 16 g, mạch môn đông 12 g, thiên hoa phấn 12 g, sắc uống ngày một thang. Có thể chỉ dùng 100 g hoài sơn, nấu thành cháo, ăn hàng ngày để trị viêm phế quản mãn, tiểu đường, suy nhược. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống) Like this: Like Đang tải ... Related

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét