Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014

Bệnh hen (chuyên đề, 5 bài)


Bài 1. Hen phế quản ở trẻ em Hen là một loại bệnh ảnh hưởng đến đường dẫn khí của phổi (phế quản). Hen gây ra bởi quá trình viêm mạn tính (kéo dài) của phế quản. Nó làm cho phế quản, hoặc đường dẫn khí, của bệnh nhân trở nên nhạy cảm với nhiều tác nhân khác nhau. Hen phế quản là gì? - Khi quá trình viêm bị kích thích bởi một số yếu tố bên trong và bên ngoài, đường thở sẽ phù nề và ứ đàm. - Các cơ của phế quản sẽ co lại làm cho phế quản hẹp hơn nữa. - Sự hẹp này làm cho khí khó có thể thoát ra được khỏi phổi (thở ra khó). - Hiện tượng kháng lại lực thở ra (thở ra khó) này là triệu chứng đặc trưng của bệnh hen. Vì hen gây ra sự đề kháng, hoặc tắc nghẽn, luồng không khí thở ra, nên nó được gọi là bệnh phổi tắc nghẽn. Thuật ngữ y học chỉ tình trạng này là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hay COPD (chronic obstructive pulmonary disease). COPD là một nhóm bệnh trong đó bao gồm không chỉ có hen mà còn có viêm phế quản mạn tính và khí phế thủng. Cũng như các bệnh mạn tính khác, hen là một bệnh mà bạn phải chịu đựng nó hằng ngày trong suốt cuộc đời. Bạn có thể bị lên cơn hen bất cứ khi nào bạn tiếp xúc với một trong những dị nguyên của bạn. Không giống như các bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính khác, hen có thể phục hồi được. - Hen không thể chữa khỏi được nhưng có thể kiểm soát được. - Bạn có cơ hội kiểm soát được hen nhiều hơn nếu như được chẩn đoán sớm và bắt đầu điều trị ngay sau đó. - Nếu được điều trị thích hợp, bệnh nhân hen có thể sẽ ít lên cơn hen hơn và các cơn hen nếu có xảy ra thì cũng sẽ ít nặng nề hơn. - Nếu không được điều trị, có thể bệnh nhân sẽ lên cơn hen thường xuyên và nặng hơn và thậm chí có thể tử vong. Hiện nay, hen gặp nhiều hơn ở các nước phát triển. Lý do chính xác vẫn chưa được biết rõ nhưng có thể có sự góp phần của những yếu tố dưới đây: - Chúng ta trải qua một tuổi thơ ít phải chịu tiếp xúc với những tác nhân nhiễm trùng như ông bà ta lúc trước nên hệ miễn dịch của chúng ta cũng trở nên ít nhạy cảm hơn. - Chúng ta ở nhà nhiều hơn thời trước nên tiếp xúc với các yếu tố dị ứng ở trong nhà nhiều hơn chẳng hạn như bụi nhà. - Không khí thời nay cũng bị ô nhiễm nhiều hơn thời xưa. - Cách sống hiện đại làm chúng ta ít vận động hơn trước và béo phì ngày càng phổ biến. Có một vài bằng chứng cho thấy có sự liên quan giữa béo phì và hen. Tuy nhiên, tin tốt lành là những người bị hen hoàn toàn có thể sống cho đến cuối đời. Những cách điều trị hen hiện tại nếu được tuân thủ chặt chẽ sẽ giúp bệnh nhân hen giới hạn được số lần lên cơn. Với sự giúp đỡ của các bác sĩ, bạn có thể kiểm soát được căn bệnh của mình. Nguyên nhân dẫn đến hen phế quản Chúng ta chưa biết được nguyên nhân chính xác gây ra hen. - Điểm chung của những bệnh nhân hen là đường dẫn khí của họ bị viêm mạn tính và quá mẫn với nhiều loại dị nguyên. - Các nghiên cứu tập trung vào vấn đề: “Tại sao người này có thể bị hen trong khi những người khác lại không bị ?” - Một số người khi mới sinh ra đã có khuynh hướng bị hen trong khi một số khác lại không có. Các nhà khoa học đang cố tìm ra các gen gây ra khuynh hướng này. - Môi trường mà bạn đang sống và cách sống của bạn xác định được một phần rằng bạn có bị lên cơn hen hay không. Cơn hen là phản ứng của cơ thể đối với dị nguyên. Nó tương tự với phản ứng dị ứng ở nhiều điểm. - Phản ứng dị ứng là đáp ứng của hệ miễn dịch của cơ thể với những tác nhân lạ. - Khi các tế bào của hệ miễn dịch nhận thấy tác nhân lạ, chúng sẽ tạo ra một chuỗi những phản ứng giúp cơ thể chống lại. - Nếu chuỗi phản ứng này làm sản xuất dịch nhầy và co thắt phế quản chúng sẽ tạo ra những triệu chứng của một cơn hen. - Những tác nhân lạ trong bệnh hen được liệt kê ở bên dưới và chúng thay đổi tùy theo từng đối tượng. Mỗi một bệnh nhân hen có những loại dị nguyên khác nhau. Có khi gần như tất cả những dị nguyên gây ra cơn hen ở một số người lại không gây ra triệu chứng gì ở những người còn lại. Một số dị nguyên thường gặp gây ra cơn hen có thể là: - Tiếp xúc với khói thuốc lá hoặc khói tạo ra bởi củi đốt. - Hít phải không khí ô nhiễm. - Hít phải những tác nhân kích thích đường hô háp khác chẳng hạn như nước hoa hoặc chất tẩy rửa. - Tiếp xúc với những chất kích thích đường hô hấp tại nơi làm việc. - Hít phải những chất gây dị ứng (dị nguyên) chẳng hạn như mọt, bụi nhà hoặc lông súc vật. - Bị nhiễm trùng đường hô hấp trên, chẳng hạn như cảm cúm, viêm xoang hoặc viêm phế quản - Thời tiết lạnh, khô. - Cảm xúc hưng phấn hoặc stress. - Vận động quá nhiều. - Trào ngược dịch dạ dày – còn được gọi là bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD – Gastroesophageal reflux disease) - Sulphit – một chất phụ gia của một số loại thức ăn và rượu. - Kinh nguyệt – ở một số phụ nữ (không phải là tất cả) có triệu chứng hen liên quan chặt chẽ đến chu kỳ kinh nguyệt. Triệu chứng của bệnh Khi đường thở bị kích thích hoặc nhiễm trùng có thể gây khởi phát cơn hen. Cơn hen có thể xuất hiện đột ngột hoặc từ từ sau vài ngày hay vài giờ. Những triệu chứng chính của cơn hen bao gồm: - Thở khò khè - Không thở được. - Co nặng ngực. - Ho - Nói khó Những triệu chứng trên có thể xảy ra trong suốt ngày hoặc đêm. Nếu xảy ra ban đêm, có thể nó sẽ làm phá vỡ giấc ngủ của bạn. Thở khò khè là triệu chứng thường gặp nhất của cơn hen. - Khò khè là tiếng rít đi kèm với nhịp thở. - Tiếng khò khè thường nghe thấy ở thì thở ra, tuy nhiên có cũng có thể nghe thấy được ở thì hít vào. - Không phải tất cả những bệnh nhân bị hen đều thở khò khè và không phải tất cả những người thở khò khè đều bị hen. Những hướng dẫn chăm sóc cho bệnh nhân bị hen hiện nay bao gồm việc phân độ cho độ nặng của triệu chứng hen như sau: - Nhẹ – không liên tục: tần số xuất hiện cơn hen không quá 2 lần/tuần và triệu chứng về đêm không quá 2 tuần/tháng. Cơn hen kéo dài không quá vài giờ. Độ nặng của cơn thay đổi nhưng không có triệu chứng giữa các cơn. - Nhẹ – liên tục: tần số xuất hiện cơn hen nhiều hơn 2 lần/tuần nhưng không phải hằng ngày, triệu chứng về đêm nhiều hơn 2 lần/tháng. Cơn hen đôi khi có thể ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày. - Trung bình – liên tục: tần số xuất hiện cơn hen và triệu chứng về đêm nhiều hơn 1 lần/tuần. Cơn hen xảy ra với cường độ nặng hơn và ít nhất là 2 lần/tuần và có thể kéo dài hằng ngày. Cần phải sử dụng thuốc tác dụng nhanh và thay đổi sinh hoạt hằng ngày. - Nặng – liên tục: cơn hen xảy ra thường xuyên, triệu chứng về đêm xảy ra liên tục và làm giới hạn những sinh hoạt hằng ngày. Một bệnh nhân bị hen mức độ nhẹ hoặc trung bình cũng có thể bị lên cơn hen nặng. Độ nặng của hen có thể thay đổi theo thời gian trở nên tốt hơn hoặc xấu hơn. Khi nào cần đến sự can thiệp của y học Nếu bạn nghĩ chính mình hoặc con bạn bị hen, hãy đến gặp bác sĩ. Một số dấu hiệu có thể giúp bạn nghĩ đến bệnh hen bao gồm: - Thở khò khè - Khó thở - Đau hoặc co ép ngực - Ho tái phát, không đều và nặng hơn về đêm. Nếu bạn hay con bạn bị hen, cần phải có một bảng hướng dẫn bao gồm những việc phải làm khi cơn hen xuất hiện, khi nào thì cần gọi bác sĩ và khi nào thì cần đưa đến phòng cấp cứu. - Hít 2 liều thuốc đồng vận beta đường xịt cách nhau 1 phút. Nếu không đỡ, xịt thêm những liều kế tiếp cách nhau mỗi 5 phút. Nếu không có đáp ứng sau 8 lần xịt (trong vòng 40 phút) thì nên đưa người bệnh đến bác sĩ. - Nên gọi cho bác sĩ nếu bạn đang lên cơn hen và đã dùng steroid đường uống hay được xịt hoặc tác dụng của thuốc qua đường xịt không kéo dài quá 4 giờ. - Trên đây chi là những hướng dẫn chung, nếu bác sĩ đề nghị một kế hoạch điều trị khác thì hãy tuân thủ theo kế hoạch đó. Mặc dù đây là bệnh có thể hồi phục được nhưng một cơn hen nặng cũng có thể gây tử vong. - Nếu bạn đang lên cơn hen và thở hơi ngắn hoặc không liên lạc được với bác sĩ thì bạn cần phải đến phòng cấp cứu của bệnh viện gần nhất. - Không nên tự đến bệnh viện một mình, hãy đi cùng với người thân hoặc bạn bè. Nếu bạn ở một mình, hãy gọi số điện thoại cấp cứu để được chở đến bằng xe của bệnh viện. Theo Yhoc-net Bài 2. Bệnh hen phế quản ở người cao tuổi Hen phế quản (HPQ) có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, hiện nay bệnh được coi là một vấn đề sức khỏe toàn cầu. Trước đây HPQ ở người cao tuổi chưa được quan tâm đúng mức do có những quan niệm sai lầm cho rằng HPQ chỉ chủ yếu xảy ra ở những người trẻ tuổi. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây ở nhiều quốc gia cho thấy, tỷ lệ người cao tuổi bị HPQ khoảng 4,5-9%. Số bệnh nhân HPQ ở nhóm tuổi trên 65 chiếm khoảng 10% tổng số các trường hợp HPQ trên toàn thế giới. Trong khi đó, tỷ lệ tử vong do HPQ ở nhóm tuổi trên 65 cao gấp 14 lần và tần xuất nhập viện do HPQ nhằm ở nhóm tuổi trên 65. Khoảng một nửa số trường hợp HPQ ở người cao tuổi xuất hiện từ lúc trẻ và kéo dài đến tuổi già, số còn lại là trường hợp mới mắc, tỷ lệ HPQ mắc mới ở những người trên 65 tuổi khoảng 0,1% mỗi năm. Nói chung, HPQ ở người cao tuổi thường nặng do không được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời cũng như sự kém nhạy cảm của người bệnh trong việc nhận biết sớm triệu chứng. Ngoài ra, một số thuốc thường dùng trong điều trị các bệnh mạn tính ở người cao tuổi như thuốc chống viêm giảm đau, thuốc chẹn bêta giao cảm, nội tiết tố nữ cũng như thói quen hút thuốc lá ở nhóm tuổi này có thể làm tình trạng HPQ nặng lên và khó kiểm soát hơn. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CHẨN ĐOÁN Có nhiều lý do khác nhau làm cho việc chẩn đoán HPQ ở người cao tuổi thường gặp nhiều khó khăn và dễ bỏ sót. Bên cạnh quan niệm sai lầm lâu nay về độ lưu hành của hen phế quản ở nhóm tuổi này làm cho chẩn đoán ít được nghĩ tới, các triệu chứng của bệnh cũng rất dễ bị nhầm lẫn với nhiều bệnh mạn tính thường xảy ra ở người cao tuổi như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), suy tim hoặc xơ phổi. Ngoài ra, việc mắc đồng thời một số bệnh mạn tính ở người cao tuổi như đái tháo đường, suy tim, bệnh mạch vành, thoái hóa khớp… hoặc việc dùng một số loại thuốc để điều trị những bệnh này có thể làm mờ hoặc che lấp các triệu chứng của HPQ. ĐIỀU TRỊ HEN PHẾ QUẢN Ở NGƯỜI CAO TUỔI Việc điều trị cũng phải bắt đầu từ việc tránh tiếp xúc với các dị nguyên gây bệnh. Cần khai thác cẩn thận tiền sử dùng thuốc trước đây và hiện nay của người bệnh. Aspirin và các thuốc chống viêm giảm đau không steroid có thể làm khởi phát các cơn cấp hoặc làm cho cơn nặng lên. Một số thuốc sử dụng trong điều trị các bệnh tim mạch có thể gây các cơn HPQ cấp hoặc làm cho tình trạng khó kiểm soát hơn. Việc sử dụng các thuốc an thần gây ngủ có thể gây ức chế hô hấp và làm cho tình trạng HPQ nặng lên. Tác dụng phụ của các thuốc điều trị HPQ cũng thường gặp ở người cao tuổi hơn so với người trẻ tuổi. Người bệnh thường rất nhạy cảm với các tác dụng phụ của thuốc cường bêta giao cảm như run tay, nhịp tim nhanh, nhất là những người có bệnh tim mạch kết hợp. Khả năng đào thải thuốc kém cũng làm cho bệnh nhân có nguy cơ cao bị ngộ độc theo phyllin và do đó nếu dùng phải giảm liều. Những bệnh nhân sử dụng glucocorticoid thường xuyên có nguy cơ bị loãng xương và cần được phối hợp với các biện pháp dự phòng loãng xương như bổ sung canxi và vitamin D. Mặc dù một số nghiên cứu cho thấy việc bổ sung nội tiết tố nữ có thể làm tăng nguy cơ các đợt bùng phát của HPQ nhưng điều trị này vẫn là cần thiết để dự phòng loãng xương ở những bệnh nhân nữ có nguy cơ cao. BS. Nguyễn Hữu Trường – SK&ĐS, 21/4/2012 Bài 3. Thuốc chữa hen phế quản Hen phế quản (HPQ) là một bệnh lý đường hô hấp hay gặp và đang có chiều hướng tăng mạnh, trở thành một trong những bệnh không nhiễm trùng phổ biến nhất hiện nay. Theo số liệu của Tổ chức Kiểm soát hen toàn cầu, do hiện tượng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, tần suất bệnh hen cũng đang tăng nhanh, dao động từ 10-25% dân chúng ở các nước phát triển và từ 8-20% tại các nước đang phát triển. Tại Hoa Kỳ, người ta thấy từ 5-10% trẻ em bị HPQ và hàng năm có đến hơn 500.000 trẻ phải nhập viện vì cơn HPQ nặng, trong đó hơn 4.000 trẻ tử vong do cơn hen ác tính dù điều kiện khám chữa bệnh ở trình độ cao. Ở Việt Nam, theo một số chuyên gia về bệnh hen, tỷ lệ người mắc bệnh có thể lên tới 10-15% dân số. HPQ là bệnh mạn tính có từng đợt kịch phát, cấp tính nặng như cơn HPQ gây khó thở đột ngột nặng làm ngăn cản sinh hoạt hay công việc, làm giảm chất lượng cuộc sống, thậm chí gây tử vong đột ngột do cơn HPQ ác tính (status asthmaticus) hay biến chứng tử vong do tràn khí lồng ngực đột ngột và dữ dội. HPQ là một bệnh dị ứng biểu hiện tại đường hô hấp, chủ yếu là tại các phế quản nhỏ do các yếu tố gây bệnh xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp (dị nguyên đường thở) gây các tổn thương viêm mạn tính đặc trưng theo cơ chế dị ứng tại đường dẫn khí thấp (các phế quản gần túi khí) như: tăng sinh các tuyến nhầy, tăng sinh các cơ trơn tại đường hô hấp dưới, phù nề quanh đường dẫn khí thấp. Hậu quả là gây co thắt cơ trơn phế quản, viêm và phù nề các phế quản nhỏ, tăng xuất tiết và ứ đọng các chất nhầy quánh dính. Hậu quả cuối cùng là giảm lượng khí lưu thông tới phổi mà chủ yếu do tắc nghẽn các phế quản nhỏ ở thì thở ra, làm kẹt khí chứa nhiều thán khí từ máu ra phổi không được thải ra ngoài, đồng thời cũng cản trở lượng khí chứa nhiều ô-xy từ ngoài vào phổi. Như vậy, việc điều trị bệnh HPQ đòi hỏi phải có hiểu biết toàn diện về các cơ chế gây bệnh cũng như các rối loạn thứ phát để điều trị nguyên nhân và xử trí thích hợp. Điều trị HPQ gồm 3 khâu cơ bản: phát hiện và loại trừ hoặc tránh tiếp xúc với tác nhân gây dị ứng (dị nguyên) và khống chế các yếu tố thuận lợi phát sinh cơn hen; khống chế và dần dần loại bỏ quá trình viêm mạn tính tại đường dẫn khí thấp (các tiểu phế quản); lập lại sự lưu thông của đường dẫn khí bằng cách giải quyết các hậu quả viêm phù nề, xuất tiết dịch quánh và co thắt hệ thống phế quản nhỏ. Các thuốc điều trị HPQ Các thuốc dùng trong điều trị HPQ bao gồm 2 nhóm chính: nhóm khống chế và loại bỏ quá trình viêm do cơ chế dị ứng và các thuốc dùng để lập lại sự lưu thông của đường dẫn khí bằng cách chống co thắt hệ thống phế quản nhỏ. Trong nhóm các thuốc chống viêm, hiện nay phổ biến nhất là các chế phẩm corticoid. Các thuốc này điều hòa việc giải phóng các hoạt chất trung gian gây viêm các cytokin (hay còn gọi là interleukin) để giảm sự lôi kéo bạch cầu ái toan và các tế bào mast là loại sản sinh nhiều chất trung gian miễn dịch IgE là chất làm tăng cường và duy trì phản ứng viêm. Ngoài ra, corticoid còn có khả năng làm tăng độ nhạy cảm và số lượng các thụ thể bêta 2 (b2 receptors) nên có tác dụng gián tiếp làm giãn phế quản. Trong lâm sàng thường sử dụng corticoid đường toàn thân như cortancyl, prednison, prednisolon, solumédrol (uống hoặc tiêm liều cao từ 2-10mg/kg/24 giờ) để khống chế cơn hen, nhất là cơn hen nặng và hen ác tính. Để giảm quá trình viêm dị ứng tại đường hô hấp nhằm phòng cơn hen tái phát, trước đây người ta phải dùng corticoid đường uống liều thấp. Nhưng vì thuốc này gây tác dụng phụ quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển, chất lượng cuộc sống và giảm sức đề kháng của cơ thể, nhất là khi phải dùng kéo dài và ở trẻ nhỏ. Những năm gần đây, người ta đã sản xuất được các chế phẩm corticoid dạng hít đơn thuần như béclomethason dipropionat (bécotid), budéssonid (pulmicort), fluticason (flexotid) hay phối hợp như ventid (gồm bécotid và salbutamol) hoặc seretid (fluticason và salbutamol). Các thuốc này chủ yếu tác dụng tại đường hô hấp do không hoặc rất ít thấm vào máu nhờ cấu trúc đặc biệt và phân tử lớn của thuốc vì vậy không gây các tác dụng phụ toàn thân đáng kể, cho phép sử dụng lâu dài, an toàn, hiệu quả cao. Tác dụng phụ chủ yếu của các thuốc này là nhịp tim nhanh, run tay chân, hạ kali máu và tăng đường máu. Ngoài ra, hiện nay trong điều trị hen, người ta bắt đầu chú ý đến các thuốc chống viêm không phải corticoid. Các thuốc này cũng có tác dụng ngăn cản quá trình viêm tại phế quản bằng cách ức chế tế bào sinh chất gây viêm như cromoglycate (lomudal), nedocromil (tilade), các thuốc ức chế thụ thể histamin H1 và ức chế yếu tố hoạt hóa tiểu cầu như ketotifen (zaditen), hoặc các thuốc ức chế trực tiếp yếu tố hoạt hóa tiểu cầu như singulair. Các thuốc này không có tác dụng phụ đáng kể. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của chúng là giá thành cao. Các thuốc dùng để lập lại sự lưu thông của đường dẫn khí bằng cách chống co thắt hệ thống phế quản nhỏ gồm 3 nhóm chính sau: Nhóm 1 gồm các thuốc kích thích thụ thể b2 (làm tăng tổng hợp AMP vòng, gây giãn phế quản) bao gồm các thuốc chủ yếu dùng trong điều trị cắt cơn hen như: terbutalin (bricanyl) dạng uống (viên, xi-rô) hoặc tiêm bắp, tiêm truyền tĩnh mạch và albuterol (ventolin, salbutamol) dạng uống (viên, xi-rô) hoặc tiêm truyền tĩnh mạch. Nhóm 2 gồm các thuốc nhóm methyl xanthin (theophylin và aminophylin) gây giãn phế quản mạnh do ức chế dị hóa MP vòng qua cơ chế ức chế men phosphodiesteras. Theophylin ít tan trong nước nên chỉ dùng ở dạng uống. Aminophylin tan trong nước nên có thể tiêm tĩnh mạch phù hợp với các tình huống cấp cứu, nhưng cần liều cao hơn (1mg aminophylin tương đương 0,85mg theophylin). Các thuốc này có giới hạn an toàn điều trị thấp, dễ có tác dụng phụ như nhịp tim nhanh, đau đầu, co giật, nhất là khi phối hợp với kháng sinh thuộc nhóm macrolid. Nhóm 3 là các thuốc làm giãn phế quản do ức chế guanosin mono-phosphat vòng (GMPc) như các thuốc thuộc nhóm kháng cholin đơn thuần như oxitropium bromure (tersigat) hay ipratropium bromure (atrovent) hoặc phối hợp với các thuốc kích thích thụ thể b2 như bronchodual (gồm fenoterol và ipratropium). Nhược điểm lớn nhất của các thuốc này là làm khô miệng và kích thích họng. Trên đây là các nhóm thuốc sử dụng trong điều trị HPQ nói chung. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc nào và phối hợp các thuốc ra sao còn phụ thuộc vào lứa tuổi, tình trạng lâm sàng của bệnh nhân (cơn nhẹ hay nặng hay cơn hen ác tính), mục đích điều trị (dự phòng hay cắt cơn). Theo SK&DS, 28/9/2007 Bài 4. Chữa bệnh hen bằng thuốc hít 2 trong 1 Dược phẩm mới có tên Seretide này là sự kết hợp của thuốc kháng viêm corticoid và thuốc giãn phế quản. Từ năm 2001, đã có 2.000 bệnh nhân ở Hà Nội và TP HCM được điều trị bằng thuốc này. 97% trong số đó đã không bị lên cơn hen trong 6-12 tháng qua. Sử dụng Seretide là một bước tiến dài trong điều trị bệnh hen. Thuốc có hiệu quả rõ ràng trong việc phòng ngừa các cơn hen kịch phát. Trong tháng đầu, bệnh nhân xịt mỗi ngày 2 lần, sau đó xịt cách ngày (2 ngày/lần). Seretide cho phép tăng gấp đôi liều dùng; những bệnh nhân có các cơn kịch phát nặng hơn có thể dùng thêm corticoid uống. Việc sử dụng bình hít 2 trong 1 giúp bệnh nhân tuân thủ tốt hơn quy trình điều trị, tránh việc tự ý ngừng dùng một trong hai loại thuốc. Từ tháng 5, ở Việt Nam đã có thêm một loại thuốc điều trị hen mới khác (đang được sử dụng thăm dò). Đó là thuốc điều trị dự phòng cắt cơn mang tên Symbicort – phối hợp giữa Pulmicort và Foradil. Tác dụng của Symbicort tương tự như Seretide. Tuổi Trẻ Bài 5. Phòng và trị bệnh hen bằng thuốc Nam Đông y có rất nhiều bài thuốc và phương pháp (châm cứu, dưỡng sinh, dinh dưỡng…) từng được sử dụng rất thành công trong điều trị hen. Phác đồ đơn giản sau có thể ứng dụng cho trẻ mắc bệnh này nếu không có điều kiện tham khảo lương y. Điều cần nhớ đầu tiên là không được dùng các chất có tác dụng chữa triệu chứng và độc như ma hoàng (Ephedra), cây bã thuốc (Loberia), thạch tín… mà chỉ sử dụng những vị thuốc tuyệt đối an toàn, có tác dụng điều hòa, bồi bổ và lấy lại thăng bằng cho cơ thể trẻ. Các vị thuốc Nam rất dễ tìm sau đây có thể dùng cho trẻ bị hen dưới dạng thuốc uống hoặc cháo: ý dĩ, hoài sơn, đan sâm, tang bạch bì (vỏ rễ cây dâu tằm), mỗi vị 5-10 g, sắc uống hằng ngày. Có thể cho trẻ dùng thành đợt 3-6 tháng, dùng cho trẻ bị hen ở bất kể lứa tuổi nào, dạng hen nào và đang được điều trị bằng bất kể loại thuốc nào. Cũng có thể cho trẻ dùng các thuốc dân gian rất dễ tìm và không độc hại như: vỏ cây hoặc quả núc nác (còn họi là hoàng bá nam), lá cây táo ta (theo kinh nghiệm của nhiều người là có tác dụng chữa hen ở trẻ nhỏ rất tốt nếu cho ăn tươi cùng mật ong), nước vắt của cây bèo cái, nước vắt của lá chè tươi. Một loạt nghiên cứu lâm sàng ở Australia cho thấy, nước xay của các loại cây họ lúa (lúa, lúa mạch, lúa mỳ, đại mạch) rất hiệu quả cho các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp trong đó có hen. Nếu có điều kiện để chẩn đoán phân biệt theo Đông y, việc sử dụng 2 bài thuốc đơn giản sau đây thường mang lại kết quả nhanh chóng và bền vững cho những trẻ bị hen: Những trẻ có biểu hiện háo nhiệt (hen nhiệt): Mật động vật (không cần cầu kỳ dùng mật của những con vật hiếm như kỳ đà, cá sấu, chỉ cần bảo đảm vệ sinh) 0,5 ml, hòa vào mật ong hoặc nước ngọt cho các cháu uống ngày 2 lần. Có thể bổ sung những vị thuốc sau đây: khổ sâm 5-10 g, hoàng cầm 3-5 g, thiên trúc hoàng 0,5-1 g, bạch truật 5-10 g. Trẻ bị hen thể hàn hoặc kết hợp nhiễm khuẩn đường hô hấp: Tử hà sa (bột khô) 1-2 g hòa vào mật ong, uống 2 lần một ngày. Có thể bổ sung các vị sau: trái nhàu 5-10 g, thạch xương bồ 3-5 g, tắc kè 5-10 g, đương quy 5-10 g, thịt cá sấu hoặc cá ngựa (hải mã) 3-5 g, vỏ quýt phơi khô 5-10 g. Thường dùng 1-3 tháng. Thuốc có thể mang lại một trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh, trẻ không bị lên cơn hen cũng như không đòi hỏi phải dùng thuốc trị liệu, lại không có tác dụng phụ nào. Tuy nhiên, các thuốc có nguồn gốc động, thực vật chỉ tác dụng tốt khi được dùng đúng bài bản. TS. Hoàng Xuân Ba, Sức Khỏe & Đời Sống Xem trang web chuyên về hen suyễn: Like this: Like Đang tải ... Related

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét